Nguyễn Trung Trực: Anh Hùng Dân Tộc

Nguyễn Trung Trực: Cuộc Đời Và Chiến Công

Nguyễn Trung Trực là một tượng đài bất khuất của phong trào chống Pháp ở Nam Kỳ vào cuối thế kỷ 19. Ông sinh năm 1839 và mất năm 1868, là thủ lĩnh của các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp tại Tân An (nay thuộc Long An) và Rạch Giá (nay thuộc Kiên Giang). Xuất thân từ gia đình có nguồn gốc từ xã Vĩnh Hội, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định, Nguyễn Trung Trực đã phải rời quê hương vì chiến tranh và định cư tại miền Nam.

Từ Những Ngày Đầu Đến Khi Gia Nhập Nghĩa Quân

Tên thật của ông lúc nhỏ là Chơn. Năm 1859, ông đổi tên thành Lịch (Nguyễn Văn Lịch), và được biết đến với tên hiệu “Trung Trực”, phản ánh phẩm chất trung thực và ngay thẳng của mình. Dưới sự dạy dỗ của thầy giáo, ông đã được đặt thêm danh hiệu này để tôn vinh tính cách nổi bật của mình.

Vì cảnh giặc giã thời bấy giờ, gia đình Nguyễn Trung Trực đã di chuyển nhiều lần cho đến khi ổn định tại xóm Nghề, làng Bình Nhựt. Tại đây, từ nhỏ ông đã nổi tiếng về khả năng võ nghệ và lòng can đảm. Ông tham gia giữ đại đồn Chí Hòa vào năm 1859 dưới sự chỉ huy của đại thần Nguyễn Tri Phương.

Chiến Công Lừng Lẫy

Các hoạt động kháng chiến của Nguyễn Trung Trực bắt đầu nở rộ sau khi ông nhận chức “Quyền sung Quản đạo” vào năm 1861 nhờ những chiến công xuất sắc trong các trận đánh với quân Pháp. Dưới sự lãnh đạo của ông có rất nhiều người yêu nước như Nguyễn Hiền Điều và Hồ Quang cùng tham gia bảo vệ vùng đất Tân An, Mỹ Tho và mở rộng xuống Kiên Giang.

Nhà thơ Huỳnh Mẫn Đạt từng ghi lại hai chiến công lớn nhất của Nguyễn Trung Trực qua câu thơ:

Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa,
Kiếm bạc Kiên Giang khấp quỷ thần.

Câu thơ này miêu tả rõ nét hai trận đánh nổi bật trong sự nghiệp chống Pháp của người anh hùng áo vải này.

Trận Nhật Tảo: Chiến Thắng Chấn Động

Sau thất bại ở đại đồn Chí Hòa vào ngày 25/2/1861, Nguyễn Trung Trực đã rút về Tân An khi mà quân Pháp đã chiếm đóng nhiều vùng đất quan trọng như Mỹ Tho kể từ tháng 4 cùng năm. Vào trưa ngày 10/12/1861, với kế hoạch táo bạo, ông cùng các đồng đội tiến hành phục kích tàu Espérance – một tàu tuần tra hiện đại của quân Pháp trên sông Nhựt Tảo.

Trận đánh diễn ra nhanh chóng nhưng mang lại kết quả bất ngờ: quân đội Việt Nam tiêu diệt được 17 lính Pháp và hàng chục lính địa phương khác. Việc này khiến cho quân đội Pháp hoảng loạn; viên chỉ huy tàu Espérance không có mặt tại đó phải đối mặt với cơn thịnh nộ khi trở về sau trận thua đau đớn này.

Tác Động Của Chiến Thắng

Chiến thắng Nhật Tảo không chỉ gây chấn động trong lòng quân đội Pháp mà còn khích lệ tinh thần nhân dân Việt Nam rất lớn. Paulin Vial gọi đây là “một sự kiện đau đớn” cho phía thực dân. Alfred Schreiner cũng nhấn mạnh rằng trận đấu này “kích thích trí tưởng tượng” mạnh mẽ trong nhân dân Việt Nam.

Nối Tiếp Các Cuộc Kháng Chiến

Sau trận Nhật Tảo, nghĩa quân do Nguyễn Trung Trực lãnh đạo tiếp tục tổ chức nhiều cuộc tấn công nhằm vào các tàu tuần tiễu trên sông Bến Lức và sông Tra vào tháng 12/1862. Những cuộc tấn công liên tiếp làm tổn thất lớn cho lực lượng thực dân và góp phần duy trì tinh thần chống lại chế độ đô hộ.

Bước Sang Giai Đoạn Mới

Sau Hòa ước Nhâm Tuất (1862), ba tỉnh miền Đông Nam Bộ bị mất vào tay Pháp buộc Nguyễn Trung Trực phải rút về miền Tây để tiếp tục hoạt động kháng chiến. Vào đầu năm 1867, ông được phong chức Lãnh binh tại Huế trước khi trở về Hà Tiên giữ chức thủ úy tại đây.

Khi thành Hà Tiên thất thủ vào ngày 23/6/1867 theo lệnh triều đình, ông buộc phải rút lui về Bình Thuận rồi tới Hòn Chông (Kiên Giang).

Nghĩa Quân Tập Kích Đồn Kiên Giang

Vào đêm ngày 16/6/1868, nghĩa quân do Nguyễn Trung Trực dẫn đầu đã bất ngờ tập kích vào đồn Kiên Giang – nơi đóng quân quan trọng nhất của người Pháp tại Rạch Giá. Trong trận này họ đã giết chết nhiều sĩ quan cấp cao bên phía thực dân và làm chủ tình hình trong suốt năm ngày liền trước khi bị lực lượng áp đảo hơn đánh bật ra ngoài.

Sự kiện này khiến chính quyền thực dân cảm thấy hoảng loạn hơn bao giờ hết.
Việc tử trận của viên chủ tỉnh Rạch Giá khiến cho chính quyền xem đây là một “sự kiện bi thảm” mà họ không thể nào quên được.

Người Đức Có Đọc Mein Kampf?

Người Đức Có Đọc Mein Kampf Không?

Cuốn sách bán chạy khổng lồ và là bản tuyên ngôn không thể tranh cãi về thế giới quan Quốc xã – nhưng liệu người Đức có thực sự đọc nó? Ngày 11 tháng 4 năm 1942, trong một buổi độc thoại thường lệ trước vòng thân cận tại tổng hành dinh “Hang Sói” ở Đông Phổ, Hitler đã chuyển đề tài sang cuốn Huyền thoại của thế kỷ XX (The Myth of the Twentieth Century) của Alfred Rosenberg. Cuốn sách nổi tiếng là khó đọc này, xuất bản lần đầu năm 1930, đã trở thành một trong những văn bản tư tưởng chủ chốt của Đệ tam Đế chế.

Trong đó, Rosenberg viết bằng thứ văn phong rối rắm, gần như không thể hiểu nổi, để trình bày một lịch sử chủng tộc của thế giới và lập luận về sự vượt trội bẩm sinh nhưng đang bị đe dọa của “chủng tộc Aryan”. Hitler từng đích thân trao cho Rosenberg Huân chương Quốc gia Đức về Nghệ thuật và Khoa học vào tháng 1 năm 1938. Thế nhưng bốn năm sau, những lời nhận xét riêng tư của Hitler lại đầy châm biếm: nhà xuất bản đã “gặp rất nhiều khó khăn để bán hết bản in đầu tiên”. Thậm chí, độc giả chủ yếu lại ở ngoài phong trào Quốc xã, và phần lớn sự quan tâm đến cuốn sách xuất phát từ sự phản đối của giới Công giáo. Hitler còn nói cuốn sách không nên được xem là đại diện chính thức cho hệ tư tưởng của Đảng Quốc xã; bản thân ông cũng “như nhiều người khác” chỉ liếc qua vài trang vì lối viết “khó hiểu”.

Tình Hình Đọc Mein Kampf

Không mấy ai phản đối nhận xét đó: ngay cả tiêu đề phụ của cuốn sách – bản dịch tiếng Anh đã được rút gọn thành “một sự đánh giá các cuộc đối đầu tinh thần – trí tuệ của thời đại chúng ta” – cũng đủ khiến người ta ngán ngẩm. Nhưng ở đây có một sự trớ trêu mà Hitler dường như không nhận ra: Mein Kampf, chính tác phẩm của ông, cũng nổi tiếng là khó đọc. Các nhà sử học từ lâu đã cho rằng hầu như chẳng ai đọc nó. Thực tế, nhiều nhân vật cấp cao Quốc xã thừa nhận họ cũng vật lộn hoặc chỉ đọc một phần.

Julius Streicher – cựu thủ lĩnh vùng Franconia và là chủ báo Der Stürmer chống Do Thái cực đoan – khi ra trước Tòa án Nuremberg đã quả quyết rằng các bị cáo Quốc xã hầu hết không hề đọc sách của Hitler; còn bản thân ông thì “chỉ đọc phần liên quan đến vấn đề Do Thái”. Với một kẻ bài Do Thái cuồng tín như Streicher, điều này nghe cũng hợp lý. Nhưng ông không phải trường hợp duy nhất: nhà báo Mỹ William Shirer cho biết nhiều đảng viên Quốc xã kỳ cựu đã tâm sự với ông rằng họ thấy cuốn sách “nặng nề hết mức” – và “không ít người” thú nhận bị nó “đánh bại” hoàn toàn.

Câu Chuyện Cười Hậu Chiến

Mười lăm năm sau chiến tranh, một bộ phim tài liệu về Đệ tam Đế chế lấy tên Mein Kampf, đã khơi ra một câu chuyện cười lan truyền ở Tây Berlin: hai cựu Quốc xã bước ra khỏi rạp chiếu phim; một người bảo người kia: “Tôi thích cuốn sách hơn.” Câu chuyện này dựa trên ý tưởng khá hấp dẫn trong giai đoạn hậu chiến rằng Mein Kampf bị số đông thờ ơ và chỉ có ít người đọc.

Số Lượng Xuất Bản Tráng Lệ

Tuy nhiên, các con số lại khiến ta phải suy nghĩ: đến năm 1944, gần 12,5 triệu bản đã được xuất bản. Ban đầu, Mein Kampf b gồm hai tập. Tập một được viết trong thời gian bị giam ở Landsberg sau vụ đảo chính Nhà bia vào ngày 18 tháng 7 năm 1925 với bản in đầu tiên lên tới 10.000 cuốn. Tập hai hoàn tất vào tháng 11 năm 1926 và xuất bản vào ngày 11 tháng 12 cùng năm.

Tháng 5 năm 1930, một phiên bản rẻ hơn gộp cả hai tập thành một cuốn (“ấn bản nhân dân”) được phát hành. Tại triển lãm kỷ niệm mười năm tập một ở Đại hội Nuremberg vào năm 1935, ban tổ chức thừa nhận rằng giá bán khá cao (12 mark) nhưng điều đó không cản trở doanh số: chỉ trong sáu tháng phải in thêm tám nghìn bản. Điều này chứng minh rằng ngay từ rất sớm người Đức đã bị hút vào cuốn sách – và vào chính con người Hitler.

Sở Thích Người Đọc

Tuy nhiên, tập một bán chạy hơn tập hai: đến cuối năm 1929 tổng số bản in của tập một đạt con số ba mươi ba nghìn còn tập hai chỉ đạt mười ba nghìn. Điều này cho thấy có lẽ nhiều độc giả cảm thấy tập đầu là đủ dùng; tờ giới thiệu triển lãm cũng ghi rằng ấn phẩm nhân dân, giá tám mark – vừa túi tiền hơn – bán nhanh hơn.

  • Tính đến cuối năm 1930 đã in được trên cinquante deux nghìn bản;
  • Năm hai nghìn mười ba–hai nghìn mười bảy cộng lại bán thêm khoảng trăm bốn mươi hai nghìn phiên bản;

Dù tốc độ tăng trưởng doanh số xảy ra đúng lúc Đảng Quốc xã trở thành đảng lớn nhất trong Reichstag tại cuộc bầu cử tháng Bảy năm hai nghìn ba mươi hai thì tốc độ bán chậm cuối thời kỳ Cộng hòa Weimar có thể do khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng với sáu triệu người thất nghiệp ở Đức khi ấy.

Kết Luận Về Sự Tiếp Nhận Mein Kampf

Bất chấp tình hình kinh tế phức tạp ấy vẫn cần ghi nhớ rằng cuốn sách hiếm khi được xem như chiếc cầu nối dẫn dắt mọi người tiến vào hàng ngũ Quốc xã. Các đảng viên thường kể rằng nếu có đọc thì họ thường tiếp xúc với nội dung Mein Kampf sau khi đã quen thuộc với các ý tưởng khác nhau trong phong trào này.

Người Zoroastrian Trong Trò Chơi LớN

Người Zoroastrian Trong Trò Chơi Lớn

Đầu những năm 1900, cộng đồng Zoroastrian nhỏ nhưng có ảnh hưởng ở Ấn Độ đã cân nhắc việc lập một thuộc địa tại Iran. Liệu người Parsi có thể trông cậy vào sự ủng hộ của Anh?

  • Thời gian: Đầu thế kỷ 20
  • Cộng đồng: Người Parsi tại Ấn Độ
  • Lãnh đạo chính: Khan Bahadur Burjorjee Patel
  • Tổ chức tham khảo: Tổ chức Phục quốc Do Thái
  • Nơi định cư đề xuất: Baluchistan, Sindh, Makran, Sistan
  • Lịch sử tôn giáo: Zoroastrian giáo và mối liên hệ với Iran

Kế Hoạch Thành Lập Thuộc Địa của Người Parsi

Tại bước ngoặt thế kỷ 20, các thành viên của cộng đồng Zoroastrian nhỏ bé ở Ấn Độ, gọi là người Parsi, tranh luận về lợi ích của việc lập một thuộc địa riêng. Người cổ xúy then chốt cho kế hoạch này là Khan Bahadur Burjorjee Patel, một Parsi giàu có sống tại thành phố Quetta. Theo tờ Parsi, tạp chí tiếng Anh của người Parsi và Nguyệt san minh họa hạng cao, năm 1905, Patel đã dành nhiều tháng “khích động” trên Rast Goftar (Người nói sự thật), một tờ báo Anglo–Gujarati do người Parsi điều hành, về “sự cần thiết phải lập một thuộc địa” cho cộng đồng.

Sự ảnh hưởng từ Tổ chức Phục quốc Do Thái

Chiến dịch của Patel nhiều khả năng chịu ảnh hưởng từ hoạt động của Tổ chức Phục quốc Do Thái (Zionist Organisation), thành lập ở Basel vài năm trước đó vào năm 1897. Một địa điểm được người Parsi cân nhắc là vùng thuộc Kenya ngày nay mà Joseph Chamberlain, Bộ trưởng Thuộc địa của Anh, từng đề xuất làm nơi lập thuộc địa Do Thái trong “Đề án Uganda” năm 1903.

Mối Liên Kết Với Quê Hương Iran

Dù người Parsi đã sống ở Ấn Độ hàng trăm năm, mối dây ràng buộc với Iran vẫn rất sâu đậm – cũng như niềm tự hào về quá khứ đế quốc của họ. Zoroastrian giáo từng là quốc giáo của Đế chế Sasanian (224–651 SCN) và đã được thực hành rộng rãi trong các thế kỷ trước đó bao gồm thời Achaemenid (550–330 TCN) và Parthia (247 TCN – 224 SCN). Zoroaster (Zarathustra), vị ngôn sứ đặt tên cho tôn giáo này, được ước tính sống sớm hơn nhiều vào khoảng năm 1500 TCN.

Tín Ngưỡng Và Nghi Lễ Của Người Zoroastrian

Người Zoroastrian thờ Ahura Mazda – “Đấng Chí Tuệ”. Họ đôi khi bị hiểu sai là “kẻ thờ lửa” vì vị trí nổi bật của lửa trong nghi lễ; tuy nhiên lửa thực ra chỉ là môi giới để thờ phượng Ahura Mazda. Họ tin rằng Ahura Mazda cuối cùng sẽ chiến thắng cái ác và rằng bằng cách tự do lựa chọn thực hành ý nghĩ thiện, lời nói thiện và việc làm thiện, họ sẽ góp phần giúp Ahura Mazda đạt được điều đó.

Câu Chuyện Di Cư Sang Ấn Độ

Sau cuộc chinh phục Iran của người Arab-Hồi giáo vào năm 651, dân số Zoroastrian giảm dần do cải sang Hồi giáo. Theo truyền thống Parsi, một nhóm người Zoroastrian đã rời Iran vào khoảng thế kỷ thứ mười để bảo vệ đức tin và tránh bách hại. Sau hành trình dài đầy khó khăn, họ định cư tại Gujarat trên bờ tây Ấn Độ.

Bài Ca Về Cuộc Hành Trình Sang Nước Mới

Cộng đồng này về sau được gọi là Parsi – cái tên bắt nguồn từ tỉnh Pars (Fars) của Iran. Tường thuật về cuộc hành trình sang India được ghi trong Qesse-ye Sanjan, một trường ca Parsi cuối thế kỷ thứ mười sáu. Bài thơ cho biết người Parsi đã hứa trung thành với vị vua Hindu địa phương Jadi Rana và tiếp nhận tiếng Gujarati.

Sự Phát Triển Kinh Tế Và Văn Hóa Của Người Parsi Tại India

Ban đầu chủ yếu là cộng đồng nông nghiệp, nhưng đến thế kỷ thứ mười bảy thì người Parsi chuyển sang hoạt động thương mại khi ngày càng nhiều thương nhân châu Âu đến làm ăn tại Gujarat. Họ đảm nhận vai trò môi giới và đại lý cho thương nhân châu Âu kết nối thương mại giữa vùng duyên hải và nội địa.

Mối Quan Hệ Với Người Châu Âu Và Thành Công Kinh Tế

Bên cạnh lợi thế ngôn ngữ tốt hơn so với nhiều cộng đồng khác trong khu vực, người Parsi còn dễ giao tiếp xã hội với người châu Âu hơn vì không bị ràng buộc nghiêm ngặt bởi các quy tắc thanh tịnh như một số cộng đồng khác ở India. Với sự khuyến khích từ chính quyền Anh lúc bấy giờ,người Parsi cũng nhanh chóng định cư tại Bombay – nơi trở thành trung tâm thương mại chủ chốt.

Cuộc Rút Lui Của Hai Vua Trần Năm 1285

Cuộc Rút Lui Của Hai Vua Trần Năm 1285

Chính nhờ sự sáng suốt của hai vua Trần và các tướng lĩnh, đặc biệt là tài năng cầm quân của Hưng Đạo Vương, Đại Việt đã lật ngược thế cờ trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Giai đoạn rút lui chiến lược của hai vua Trần (Thượng hoàng Thánh Tông và Hoàng đế Nhân Tông) vào năm 1285 thường được nhắc đến như một bước ngoặt đầy kịch tính.

Tổng Quan Về Cuộc Chiến

  • Thời gian: Tháng 3 năm 1285
  • Địa điểm: Đại Việt, Thanh Hóa
  • Đối thủ: Quân Nguyên dưới sự chỉ huy của Thoát Hoan
  • Kết quả: Hai vua Trần thành công trong việc rút lui và tổ chức lại lực lượng.

Các diễn biến dồn dập và những chiến lược “nhử địch” rồi bất ngờ phản công đã tạo nên nhiều cách hiểu trái chiều trong giới nghiên cứu. Qua bài viết này, chúng ta sẽ phân tích bối cảnh, sự kiện, cũng như tranh luận xung quanh việc “liệu Đức Hoàng đế Trần Nhân Tông có từng muốn đầu hàng” hay không. Điều này cho thấy bức tranh phức tạp về cuộc rút lui này cùng khả năng thao lược xuất sắc của triều Trần trước sức ép mãnh liệt từ quân Nguyên.

Bối Cảnh Chiến Sự

Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1285), quân Nguyên dưới sự chỉ huy của Thoát Hoan tỏa ra nhiều hướng, hợp vây quân đội Đại Việt. Kế hoạch của địch là “kẹp gọng kìm” quân Đại Việt, dồn hai vua Trần vào thế bị động. Sau khi rút khỏi kinh thành Thăng Long, quân ta liên tục bị quân Nguyên truy kích ráo riết.

Các địa danh như Tha Mạc, Bình Than, A Lỗ và Đại Hoàng trở thành những nơi mà quân đội ta phải di chuyển để tránh né sức ép từ đối phương. Theo ghi chép của Cương Mục, vua Trần phải “chạy loạn long đong”, còn Việt Nam Sử Lược viết: “Nhân Tông kinh hãi, Thượng hoàng đêm ngày lo sợ.” Điều đó thể hiện rõ áp lực mà hai vị vua đang phải chịu đựng.

Sự Phản Kháng Của Quân Đội Đại Việt

Mặc dù tình hình có vẻ nghiêng về phía quân Nguyên nhưng thực tế họ cũng gặp khó khăn không nhỏ. Quân Nguyên bị tiêu hao lực lượng bởi những cuộc kháng cự mạnh mẽ từ phía dân chúng và binh lính nhà Trần. Chẳng hạn như phản thần Trần Kiện trên đường đến chầu Hốt Tất Liệt đã bị tiêu diệt bởi lực lượng yêu nước.

Bằng chứng cho thấy rằng nếu quân Nguyên thật sự mạnh mẽ như họ tưởng tượng thì họ đã không cần phải xin thêm viện binh hay đóng đồn khắp nơi để kiểm soát tình hình.

Các Diễn Biến Chính Trong Cuộc Rút Lui

Ngày 1 tháng 3 năm Ất Dậu (1285), hai vua buộc phải bỏ thuyền vì bị truy đuổi gắt gao và dùng đường bộ để đến một địa danh tên Thủy-Chú (hiện chưa xác định). Sau đó họ lại dùng thuyền ra cửa Nam Triệu để vượt qua biển Đại Bàng tiến vào Thanh Hóa.

Theo Cương Mục Chính Biên quyển VII, việc bỏ thuyền di chuyển bằng đường bộ nhằm đánh lừa quân Nguyên khiến chúng không kịp trở tay. Quân đội Đại Việt ban đầu cố tình tạo ra thế tam đầu thọ với mục tiêu tái chiếm Thanh Hóa làm căn cứ lâu dài.

Các Cuộc Gặp Gỡ Quyết Định

Khi các cánh quân của Thoát Hoan và Ô Mã Nhi dồn xuống phía Nam thì bất ngờ hai vua cùng chủ lực đã chiếm lại Thanh Hóa. Việc này buộc Toa Đô phải quay ngược ra Bắc nhưng không đạt được kết quả gì đáng kể.

Sự thất bại trong kế hoạch bắt sống hai vua là minh chứng cho khả năng ứng biến linh hoạt của triều đình nhà Trần.

Các Cuộc Chiến Khốc Liệt Với Quân Nguyên

Ngày 9 tháng 3 năm Ất Dậu (1285), tướng Giảo Kỳ dẫn hải quân vây bắt hai vua Trần nhưng may thay nhờ tướng Nguyễn Cường tận lực bảo vệ mà hai vị lãnh đạo thoát được về Tam Trĩ. Trong khi đó, tại Thanh Hóa cũng diễn ra các trận đánh ác liệt giữa dân chúng địa phương và quân Nguyên.

Tướng Giảo Kỳ tiến quân đến Bố Vệ nhưng lập tức bị người dân tại đây chặn đánh quyết liệt. Theo bia chùa Hưng Phúc ghi lại câu chuyện về ông Lê Mạnh đã đứng lên cầm quân địa phương chống lại địch ở bến Cổ Bút khiến cho quận Nguyên không thể thoát khỏi tình hình khó khăn này.

Kết Luận Về Cuộc Rút Lui Năm 1285

Sự kiện rút lui lịch sử này không chỉ thể hiện tinh thần đoàn kết mà còn là khả năng lãnh đạo tài ba của triều đình nhà Trần trong hoàn cảnh khó khăn nhất. Những bài học quý giá từ trận chiến này vẫn còn vang vọng đến ngày nay về sức mạnh ý chí tự do và lòng yêu nước mãnh liệt của nhân dân ta trước mọi thử thách từ bên ngoài.

Nguyên Nhân Cuộc Nổi Loạn Thời Tự Đức

Nguyên Nhân Các Cuộc Nổi Loạn Thời Tự Đức

Triều Nguyễn từ Gia Long đến Tự Đức đã kế thừa không ít sai lầm từ quá trình “khai triều” bằng bạo lực, lại thiếu chiến lược thu phục lòng dân.

Thành Công Khó Khăn của Vua Gia Long

Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, vua Gia Long lên ngôi năm 1802. Tuy nhiên, thành công này chủ yếu dựa vào sức mạnh quân sự cùng sự trợ giúp của các thế lực nước ngoài như Xiêm, Lào, Chân Lạp và các giáo sĩ phương Tây. Điều này cho thấy rằng ông chưa thật sự “thu phục” được lòng dân trong toàn quốc.

Việc lên ngôi trong điều kiện lòng dân chia rẽ đã khiến triều Gia Long và các vị vua kế nhiệm như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức luôn phải đối mặt với nhiều cuộc nổi dậy. Đặc biệt hơn, đến đời Tự Đức (1848–1883), triều đình còn phải chống chọi với sự xâm lăng của thực dân Pháp, làm cho tình hình trong nước càng thêm rối ren.

Mâu Thuẫn Giữa Triều Đình và Dân Chúng

Tuy lúc đầu vua Gia Long nỗ lực ổn định trật tự và thiết lập guồng máy cai trị nhưng mâu thuẫn giữa triều đình mới và sĩ dân Bắc Hà vẫn sâu sắc. Sĩ dân Bắc Hà nuôi lòng hoài Lê vì nhà Lê có công đánh đuổi quân Minh. Chính sách “bá đạo” của một số tướng lĩnh được giao trọng trách Tổng trấn cũng dẫn đến nhiều vụ thanh trừng cá nhân, gây ra bất mãn trong nhân dân.

Trong mắt sĩ dân Bắc Hà, triều Nguyễn đã “thất tín” khi dẹp xong Tây Sơn nhưng lại bỏ hẳn niên hiệu Cảnh Hưng của nhà Lê. Hơn nữa, việc đóng đô ở Huế – một vùng xa kinh kỳ Thăng Long – khiến người Bắc Hà cảm thấy bị bỏ quên.

Các Tai Ương Xảy Ra Liên Tục

Bên cạnh những bất ổn chính trị, nước ta trong giai đoạn này còn liên tiếp hứng chịu thiên tai. Các nạn đói lớn cùng những lần đại hạn, lụt bão khiến cuộc sống người dân sa sút nghiêm trọng. Trong khi đó, triều đình vẫn phải còng lưng nộp bồi khoản chiến phí cho Pháp sau Hòa ước Nhâm Tuất 1862 thì lòng dân không thể không oán thán.

  • Các thiên tai liên tục: đại hạn kéo dài nhiều tháng trời; đê điều vỡ gây ngập lụt; châu chấu phá hoại mùa màng.
  • Tình trạng tham nhũng gia tăng nghiêm trọng: quan lại lợi dụng chức quyền để bóc lột nhân dân.
  • Nỗi khổ của nhân dân: đói kém diễn ra thường xuyên do chính sách thuế khóa nặng nề.

Lòng Hoài Lê và Những Cuộc Nổi Dậy

Từ đầu thế kỷ 19, lòng “hoài Lê” đã trở thành nguyên nhân chính khiến miền Bắc liên tục biến động. Những lời kêu gọi “Phù Lê” từ thời chúa Nguyễn Hoàng vang vọng khắp nơi khi triều Nguyễn tỏ ra thờ ơ với tình hình miền Bắc hoặc thậm chí đàn áp giới sĩ phu nơi đây.

Các hành động xem thường giới nho sĩ miền Bắc như việc đánh đòn hay giết hại những danh sĩ dưới triều Tây Sơn đã tạo nên hố sâu ngăn cách giữa chính quyền mới và nhân dân cũ. Ví dụ điển hình là sự việc Ngô Thì Nhiệm bị đánh đến nứt ruột hay Phan Huy Ích bị xử lý nghiêm khắc tạo ra sự phẫn uất trong xã hội.

Tham Nhũng Và Chính Sách Bất Công

Nếu nhà Nguyễn biết cách phục hưng tâm tư người dân có thể sẽ giảm bớt đi nỗi nhớ về nhà Lê. Tuy nhiên tham nhũng lan tràn mọi nơi cùng với chính sách quản lý hà khắc gây khó khăn cho người nghèo tại các vùng quê.
hệ thống thuế khóa cao cùng với việc chăm sóc cơ sở hạ tầng kém chất lượng đã dẫn đến hàng loạt vấn đề lớn cho nền kinh tế địa phương.

Nếu quan lại chỉ lo làm giàu mà bỏ mặc công trình thủy lợi sống còn thì tình trạng mất mùa sẽ xảy ra liên tục và tất yếu dẫn tới nổi dậy.”

Khi Quan Liêu Bỏ Rơi Dân Chúng

Một ví dụ rõ nét về tình trạng này là hiện tượng “đê vỡ 18 năm liền” ở Văn Giang (Hưng Yên). Điều này chứng minh rằng quan lại chỉ chăm chăm vào lợi ích cá nhân mà không quan tâm đến đời sống của người nông dân.
hậu quả là mất mùa kéo dài khiến họ rơi vào cảnh nghèo khó cùng cực.

Tiếng Kêu Của Dân Chúng Không Được Nghe Thấy

Dù có những tiếng nói tố cáo tham nhũng từ cả những hoàng thân như Tùng Thiện Vương hay các đại thần trung trực kiểu Ông Ích Khiêm dâng sớ xin triều đình trừng trị kẻ tham ô nhưng kết quả không đáng kể.
vua Tự Đức tuy biết nhưng cũng gặp khó khăn do bệnh tật và áp lực từ thực tiễn nên không thể giải quyết tận gốc vấn đề này.

Khủng Hoảng An Ninh Phương Tây Sau Chiến Tranh II

Cuộc Khủng Hoảng Tồi Tệ Nhất Của Phương Tây Từ Sau Thế Chiến II

Khi sự tin cậy vào cam kết an ninh của Mỹ lung lay, châu Âu cần khẩn trương tìm kiếm giải pháp dài hơi để tự vệ. Trong lịch sử cận đại, đã có những giai đoạn mà trật tự quốc tế tưởng chừng bền vững lại bỗng nhiên chao đảo. Tình hình hiện nay ở châu Âu và quan hệ xuyên Đại Tây Dương cho thấy chúng ta đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng an ninh được đánh giá là nghiêm trọng nhất kể từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai.

  • Vai trò của Mỹ trong an ninh châu Âu đang bị thách thức.
  • Châu Âu phải tìm cách tự bảo vệ khi cam kết của Mỹ suy yếu.
  • Những nguyên tắc địa chính trị truyền thống đang bị đặt dấu hỏi.

Lịch Sử An Ninh Châu Âu Sau Chiến Tranh Thế Giới II

Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, Hoa Kỳ đã bước lên vị thế lãnh đạo khối các quốc gia dân chủ, chính thức thay thế Anh trong vai trò “trụ cột” an ninh ở nhiều khu vực. Dấu mốc lịch sử này bắt đầu khi Anh không còn đủ nguồn lực duy trì trợ giúp quân sự cho chính phủ Hy Lạp chống lại lực lượng Cộng sản vào năm 1947. Trong bối cảnh đó, Hoa Kỳ nhanh chóng lấp vào “khoảng trống quyền lực” mà Anh để lại, đặc biệt ở Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, nhằm ngăn chặn sự bành trướng của Liên Xô thời bấy giờ.

Chính sách “Ngăn chặn” (Containment) được Tổng thống Harry S. Truman định hình qua Học thuyết Truman (Truman Doctrine). Học thuyết này nhấn mạnh: “Hoa Kỳ phải hỗ trợ các dân tộc tự do đang nỗ lực chống lại sự khuất phục bởi vũ lực hoặc sức ép bên ngoài.” Theo đó, Kế hoạch Marshall (Marshall Plan) ra đời để hỗ trợ khôi phục kinh tế châu Âu, và NATO chính thức được thành lập năm 1949 như tấm khiên bảo vệ các quốc gia Tây Âu trước mối đe dọa từ Liên Xô.

Mỹ Hóa Phương Tây Và Những Giá Trị Được Thiết Lập

Từ thời điểm này, nước Mỹ – vốn theo đuổi chủ nghĩa biệt lập – đã dần trở thành “lãnh đạo thế giới tự do.” Giới nghiên cứu nhìn nhận đây là sự “Mỹ hóa” phương Tây: văn hóa, kinh tế và sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ lan rộng khắp các nước đồng minh. Những giá trị phương Tây với tiêu chuẩn phổ biến là giá trị Mỹ đã góp phần củng cố trật tự thế giới được thiết kế theo mô hình dân chủ tự do.

Thách Thức Đặt Ra Cho Chính Sách Đối Ngoại Của Mỹ

Tuy nhiên, những nguyên tắc địa chính trị mà Mỹ duy trì suốt hàng thập kỷ giờ đây đang bị thách thức. Tổng thống Donald Trump là người đầu tiên sau Thế chiến II công khai đặt câu hỏi về vai trò “cảnh sát toàn cầu” của Hoa Kỳ. Tư tưởng “Nước Mỹ trên hết” (America First) làm dấy lên lo ngại rằng Washington có thể thoái lui khỏi những liên minh và cam kết quân sự lâu dài mà nhiều đời tổng thống trước đây đều kiên trì theo đuổi.

Dấu hiệu cho thấy Mỹ muốn “rút bớt” trách nhiệm bảo vệ đồng minh không phải lần đầu ông Trump đề cập. Gần 40 năm trước đó, Donald Trump từng chỉ trích việc Mỹ tốn quá nhiều nguồn lực “bảo kê” cho đồng minh như Nhật Bản. Ông cho rằng Mỹ chịu thiệt hại cả về người lẫn của vì phải bảo vệ lợi ích thương mại và chính trị cho những nước không đóng đủ “phí phòng vệ”.

Các Quan Ngại Về Vai Trò Của Đồng Minh Châu Âu

Khi Trump lên nắm quyền, thông điệp về việc “các đồng minh phải trả tiền” hay “không tăng chi tiêu quốc phòng thì sẽ không được bảo vệ” càng thể hiện rõ nét hơn. Điều này gây sốc tại châu Âu; một số quan chức trong chính quyền Trump công khai bày tỏ phẫn nộ với điều họ gọi là “châu Âu ỷ lại.” Các cuộc trao đổi rò rỉ giữa các quan chức cấp cao cũng cho thấy tâm lý “ghét phải tiếp tục giải cứu châu Âu” không còn chỉ là tuyên bố nhất thời nữa.

Đại Tướng Võ Nguyên Giáp: Khởi Đầu Một Huyền Thoại

Đại Tướng Võ Nguyên Giáp: Khởi Đầu Một Huyền Thoại

Võ Nguyên Giáp, một nhân vật quan trọng trong lịch sử quân sự Việt Nam, không xuất phát từ bất kỳ trường quân sự chính thống nào. Ông tự học hỏi qua các sách lược của Napoléon, Clausewitz, Tôn Tử, T. E. Lawrence và nhiều nhà lãnh đạo khác. Với tài năng thiên bẩm và quyết tâm mạnh mẽ, ông đã xây dựng nên một sự nghiệp cầm quân lừng lẫy.

Tóm tắt nhanh

  • Ngày sinh: 1912 tại Quảng Bình.
  • Sự nghiệp: Từ chỉ huy một trung đội trở thành tổng tư lệnh Quân đội Bắc Việt.
  • Thành tựu nổi bật: Đánh bại Pháp, chế độ Việt Nam Cộng Hòa và buộc Hoa Kỳ rút lui khỏi chiến tranh.

Bối cảnh lịch sử và gia đình

Võ Nguyên Giáp sinh năm 1912 tại làng An Xá, tỉnh Quảng Bình – nơi nổi tiếng với truyền thống đấu tranh chống áp bức. Gia đình ông có nguồn gốc đa dạng; cha ông được cho là nho sĩ hoặc nông dân nghèo nhưng đều tham gia vào các phong trào kháng Pháp cuối thế kỷ XIX. Bầu không khí kháng chiến này đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng của Giáp từ khi còn nhỏ.

Sự hình thành tư tưởng cách mạng

Năm 1924, Võ Nguyên Giáp theo học tại Trường Quốc Học Huế, nơi mà nhiều nhân vật lớn như Hồ Chí Minh cũng từng học tập. Vào năm 14 tuổi, ông bắt đầu tham gia các hoạt động bí mật chống lại thực dân Pháp. Trong quá trình học tập và hoạt động chính trị này, Giáp đã bị trục xuất khỏi trường sau khi tham gia phong trào “bãi khóa.” Sau đó, ông trở về làng và gia nhập Tân Việt Đảng – một tổ chức theo khuynh hướng cộng sản.

Các hoạt động cách mạng đầu tiên

Khi giai đoạn 1930 diễn ra những biến động lớn trong xã hội Việt Nam do cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, Võ Nguyên Giáp cùng với đồng chí dấy lên phong trào cách mạng nhưng bị bắt và kết án ba năm tù giam. Tuy nhiên, thời gian ở tù không chỉ là thử thách mà còn giúp ông gặp được Minh Thái – người sau này sẽ trở thành vợ đầu của ông.

Con đường đến với quân đội

Năm 1932, sau khi được thi tú tài ở Huế và đậu với điểm số cao, Võ Nguyên Giáp chuyển đến Hà Nội để học Đại học Luật. Dù đạt bằng cử nhân luật vào năm 1937 nhưng ông không hành nghề luật sư mà tiếp tục theo đuổi con đường cách mạng. Trong thời gian này, ông kết bạn với những nhân vật quan trọng trong Đảng Cộng sản Đông Dương như Phạm Văn Đồng và Trường Chinh.

Tác phẩm nổi bật

Khoảng thời gian từ năm 1938 đến 1939 đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp của Võ Nguyên Giáp khi ông viết báo cho nhiều tờ báo “chui” nhằm tuyên truyền tư tưởng cách mạng trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Điều này giúp tạo nền tảng cho những chiến lược liên kết chặt chẽ giữa Đảng Cộng sản với nông dân – lực lượng chủ lực trong cuộc kháng chiến chống Pháp sau này.

Mất mát và quyết tâm chiến đấu

Năm 1940 là một năm đầy biến động khi Võ Nguyên Giáp phải rời quê hương sang Trung Quốc do tình hình chính trị căng thẳng tại Việt Nam. Trong thời gian ở đây, ông đã gặp Hồ Chí Minh – người lãnh đạo tối cao của Đảng Cộng sản Việt Nam lúc bấy giờ. Sự chỉ đạo từ Hồ Chí Minh cùng việc tổ chức lực lượng du kích đã định hình nên con đường quân sự mà Giáp sẽ theo đuổi sau này.

Nỗi đau mất mát

Khi đang tích cực chuẩn bị cho cuộc kháng chiến thì nhiều mất mát xảy ra đối với gia đình Võ Nguyên Giáp: vợ ông Minh Thái bị tra tấn đến chết bởi thực dân Pháp; hai chị gái cũng bị xử án tử hình cùng với nhiều người thân khác trong gia đình. Những tổn thất to lớn này càng làm tăng thêm tinh thần quyết tâm chống lại thực dân Pháp của vị tướng trẻ tuổi.

Xây dựng lực lượng quân đội

Từ cuối năm 1940 trở đi, Võ Nguyên Giáp đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam thông qua việc thiết lập các trại huấn luyện ở vùng núi biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc. Ông xác định rõ mục tiêu đấu tranh giành độc lập cho đất nước bằng mọi giá.

Tổ chức các cuộc hành quân quan trọng

Dưới sự lãnh đạo của Võ Nguyên Giáp, Quân đội Nhân dân đã tiến hành nhiều cuộc hành quân mang tính chất quyết định như trận Điện Biên Phủ vào năm 1954 – đánh dấu bước ngoặt lớn lao trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kéo dài suốt gần một thế kỷ.

Câu nói nổi tiếng của Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Chính ông ấy là kiến trúc sư của chiến thắng này” nhấn mạnh vai trò không thể thiếu của đại tướng Võ Nguyên Giáp trong lịch sử hiện đại Việt Nam.

Kết thúc huyền thoại

Dù trải qua nhiều thăng trầm trong sự nghiệp cầm quân nhưng di sản mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp để lại vẫn mãi sống mãi trong lòng nhân dân cả nước cũng như bạn bè quốc tế.
Nhiều người vẫn nhớ về hình ảnh vị Tổng Tư lệnh kiên cường cùng những bài học quý giá từ cuộc đời mình: tinh thần yêu nước mãnh liệt và sức mạnh đoàn kết dân tộc luôn là yếu tố quyết định cho bất kỳ thắng lợi nào trên con đường giành độc lập tự do cho đất nước.

Cuộc Duy Tân Minh Trị: Chặng Đường Lịch Sử Quan Trọng

Cuộc Duy Tân Minh Trị: Bước Chuyển Mình Của Nhật Bản

Cuộc Duy Tân Minh Trị bao gồm loạt cải cách sâu rộng với mục tiêu “khai sáng” đất nước. Trong lịch sử thế giới, không thiếu những giai đoạn mà một quốc gia bỗng chốc “lột xác” và trỗi dậy mạnh mẽ, thay đổi hoàn toàn vị thế của mình trên bản đồ chính trị – kinh tế toàn cầu. Đối với Nhật Bản, cuộc Minh Trị Duy Tân cuối thế kỷ 19 chính là bước ngoặt mang tầm vóc ấy. Chỉ trong vòng vài thập niên, một nước Nhật gần như khép kín suốt nhiều thế kỷ đã bùng nổ, biến thành cường quốc công nghiệp và quân sự hàng đầu khu vực, sẵn sàng thách thức những đế quốc phương Tây hùng mạnh.

Nhưng để đạt được điều đó, dân tộc Nhật đã phải trả những cái giá đắt đỏ, từ xung đột chính trị đến nội chiến, từ cải cách tài chính đến “xóa sổ” cả một giai tầng Samurai danh giá. Bài viết dưới đây sẽ đưa bạn trở lại giai đoạn sóng gió ấy – giai đoạn mà những thay đổi sâu sắc đã khắc họa nên một Nhật Bản hiện đại, đồng thời đặt nền móng cho vị thế đặc biệt của xứ sở hoa anh đào trên trường quốc tế.

Từ Thời Edo Đến Cuộc Minh Trị

Trước khi hình thành những điều kiện cần thiết để đưa Nhật Bản đến cuộc Minh Trị Duy Tân, ta phải quay ngược thời gian về thời Edo (1603–1868). Đây là giai đoạn mà dòng họ Tokugawa nắm quyền cai trị với tư cách là “Mạc phủ” (Shogunate), còn Thiên Hoàng (Hoàng đế Nhật Bản) hầu như chỉ nắm quyền lực mang tính biểu tượng và nghi lễ.

Để hiểu được vì sao nhà Tokugawa đã duy trì hòa bình và trật tự trên khắp Nhật Bản trong suốt hơn hai thế kỷ, ta cần nhìn lại thời kỳ trước đó. Từ thế kỷ 15, quyền lực các Thiên Hoàng dần bị thu hẹp, nhường chỗ cho các lãnh chúa phong kiến (Daimyo) và giai cấp võ sĩ (Samurai). Các Daimyo không ngừng tranh giành quyền lực, thiết lập hoặc lật đổ những Mạc phủ khác nhau. Đây cũng là bối cảnh cho sự xuất hiện của tầng lớp Samurai – lực lượng võ sĩ sẵn sàng cống hiến cho chủ tướng, đóng vai trò quan trọng trong xã hội Nhật Bản thời bấy giờ.

Nội Chiến Và Sự Xuất Hiện Của Tokugawa

Trong “Thời Chiến Quốc Nhật Bản” (Sengoku), khoảng 1467–1615), Nhật Bản chìm đắm trong nội chiến triền miên. Oda Nobunaga nổi lên như một “thống soái” có khả năng dẹp yên các cuộc loạn lạc. Sau khi Nobunaga qua đời, quyền lực tạm thời thuộc về Toyotomi Hideyoshi. Đến năm 1600, Tokugawa Ieyasu lật đổ dòng dõi Toyotomi và mở ra Mạc phủ Tokugawa với chính sách cai trị cứng rắn và thống nhất.

Chính Sách Sakoku Và Hệ Quả

Vào thời Edo, để giữ ổn định xã hội và ngăn chặn ảnh hưởng từ nước ngoài, các tướng quân Tokugawa thiết lập chính sách “Sakoku”. Chính sách này kéo dài suốt hơn hai thế kỷ và hạn chế giao thương với các quốc gia khác ngoài mối quan hệ rất hạn hẹp với Trung Quốc và Hà Lan tại Nagasaki. Nhờ vậy nhà Tokugawa tránh được những mối đe dọa từ các thế lực phương Tây đang ráo riết đi chiếm thuộc địa.

Đồng thời trật tự xã hội cũng được duy trì bằng những quy định nghiêm ngặt về giai cấp: Samurai đứng đầu tiên sau đó là nông dân rồi đến thợ thủ công và thấp nhất là thương nhân. Tuy nhiên chính việc duy trì hòa bình quá lâu lại dẫn đến nhiều bất cập.

Bất Cập Trong Xã Hội

Khi không còn chiến tranh nữa thì vai trò quân sự thực tế của Samurai giảm sút trong khi họ vẫn hưởng bổng lộc cố định từ lãnh chúa hoặc triều đình. Ngược lại thương nhân – dù đứng hạng cuối cùng trong tôn ti – lại có điều kiện tích lũy tài sản khổng lồ. Điều này khiến mô hình xã hội bắt đầu có dấu hiệu lệch pha khi nguồn ngân sách quốc gia bị cạn kiệt do nuôi bộ máy quan lại quá cồng kềnh.

Mối Đe Dọa Từ Phương Tây

Khi bước vào giữa thế kỷ 19 với tình hình nội bộ ngày càng căng thẳng cùng áp lực bên ngoài gia tăng từ các cường quốc phương Tây đang ráo riết tìm kiếm thị trường mới cũng như vùng đất giàu tài nguyên thì Mạc phủ Tokugawa rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng.

Bakumatsu: Thời Kỳ Khủng Hoảng Cuối Cùng

“Bakumatsu” chỉ giai đoạn cuối (cuối thập niên 1850 – 1868) của Mạc phủ Tokugawa – nơi nước Nhật phải đối mặt với áp lực thương mại và quân sự từ phương Tây. Năm 1853 Hải quân Mỹ dưới sự chỉ huy của Commodore Matthew C. Perry cập bến Nhật Bản mang theo tối hậu thư yêu cầu mở cửa giao thương nếu không sẽ bị tấn công.

Mặc dù vốn quen với chính sách bế quan tỏa cảng nhưng Mạc phủ Tokugawa buộc phải ký Hiệp ước Kanagawa năm 1854 nhằm mở đường cho việc ký thêm nhiều hiệp ước thương mại bất bình đẳng khác sau đó như Hiệp ước Harris năm 1858.

Các Biến Động Chính Trước Cuộc Duy Tân

  • Sự tan rã của cấu trúc xã hội truyền thống.
  • Sự xuất hiện của phong trào phản đối Mạc phủ ngày càng mạnh mẽ.
  • Các cuộc biểu tình yêu cầu cải cách diễn ra thường xuyên ở nhiều nơi trên đất nước.

Nhu Cầu Về Một Cuộc Cải Cách Toàn Diện

Tình hình căng thẳng này đã tạo ra nhu cầu mãnh liệt về một cuộc cải cách toàn diện nhằm cứu vãn đất nước khỏi nguy cơ suy vong trước sức ép từ bên ngoài cũng như tình trạng hỗn loạn bên trong. Những tư tưởng mới bắt đầu len lỏi vào đời sống người dân thúc đẩy họ tìm kiếm con đường phát triển hiện đại hóa đất nước theo mô hình phương Tây.

Nguyễn Công Nhàn: Danh Tướng Bất Diệt

Nguyễn Công Nhàn: Hùng Dũng Tướng Của Tây Nam Bộ

Bài viết này khái quát thân thế, sự nghiệp của “Hùng dũng tướng” Nguyễn Công Nhàn – người có nhiều công lao trong việc dẹp nội loạn, chống ngoại xâm và khai kênh mở đất ở Tây Nam bộ dưới triều Nguyễn. Hy vọng qua đây, bạn đọc sẽ có thêm góc nhìn về một danh tướng tuy ít được sử sách nhắc đến nhưng lại để lại nhiều dấu ấn trong lịch sử Việt Nam.

Tại Một Nhìn

  • Thân thế: Người Biên Hòa, xuất thân từ gia đình quan lại.
  • Sự nghiệp: Đánh dẹp giặc ngoại xâm và nội loạn dưới triều Nguyễn.
  • Cống hiến: Khai kênh Vĩnh An Hà, bảo vệ biên giới Tây Nam.
  • Di sản: Mộ phần tại Đồng Tháp và tên tuổi được ghi nhớ qua các công trình.

Thân Thế Và Xuất Thân

Tài liệu về Nguyễn Công Nhàn rất hiếm. Năm sinh và năm mất của ông không được ghi chép rõ ràng. Theo quốc sử triều Nguyễn, ông là người Biên Hòa, nơi đã bị nhượng cho Pháp theo Hiệp ước Nhâm Tuất (1862). Cha ông là quan Khâm sai Chánh quản Đồ gia Bắc thành. Từ nhỏ, ông đã bộc lộ năng khiếu võ nghệ và được đưa vào trường Anh Danh ở kinh đô Huế – ngôi trường chuyên đào tạo võ quan.

Sự Nghiệp Lẫy Lừng

Sau khi tốt nghiệp, Nguyễn Công Nhàn nhanh chóng chứng tỏ tài năng qua hàng loạt chiến công: dẹp các cuộc bạo loạn của tộc người thiểu số vùng Tây Nguyên, chống quân Xiêm và Miên xâm lấn biên giới Tây Nam. Ông còn chủ trương đào kênh Vĩnh An Hà ở An Giang, giúp kết nối Tiền Giang với Hậu Giang, mang lại lợi ích cả về kinh tế lẫn quân sự.

Các Triều Vua Và Thành Tích Đáng Kể

Trong suốt ba triều vua Minh Mạng (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847) và Tự Đức (1848-1883), Nguyễn Công Nhàn liên tục nhận được khen thưởng và thăng chức. Đặc biệt, ông được ban tấm bài vàng khắc bốn chữ “Hùng dũng tướng”, một vinh dự hiếm hoi thể hiện sự ghi nhận của triều đình dành cho những người có công đánh dẹp giặc ngoại xâm và nội loạn.

Kháng Chiến Chống Thực Dân Pháp

Năm 1858, liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng, mở đầu cuộc xâm lược nước ta. Sau khi thất bại ở Đà Nẵng, quân Pháp chuyển hướng đánh Gia Định (1859). Triều đình Huế cử ông làm Đề đốc quân vụ cùng với Nguyễn Tri Phương phòng thủ. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau mà thành Gia Định cuối cùng cũng thất thủ vào tay Pháp.

Năm 1861, quân Pháp tiếp tục tấn công Định Tường; lúc này Nguyễn Công Nhàn đang giữ chức Tổng đốc đã tổ chức lực lượng kháng cự mạnh mẽ. Tuy nhiên tháng 12 cùng năm Biên Hòa cũng thất thủ. Triều đình bắt đầu ký các hiệp ước cắt nhượng đất cho Pháp và buộc giải tán lực lượng kháng chiến ở Nam kỳ lục tỉnh.

Kết Cục Và Di Sản Còn Lại

Mặc dù nhận lệnh đổi sang trấn nhậm Vĩnh Yên nhưng ông không tuân chỉ mà vẫn ở lại chiêu tập nghĩa dũng để tiếp tục đánh Pháp. Khi lực lượng hao mòn sau nhiều trận chiến ác liệt, ông rút về vùng Đồng Tháp Mười – Tiền Giang rồi cố thủ tại Long Hưng (Nước Xoáy). Cuối đời, Nguyễn Công Nhàn qua đời tại Long Hưng và mộ phần của ông hiện đặt tại ấp Hưng Thành Tây thuộc xã Long Hưng A huyện Lấp Vò tỉnh Đồng Tháp.

Phẩm Chất Và Những Sai Lầm Trong Cuộc Sống

Dù để lại nhiều chiến công vẻ vang nhưng “Hùng dũng tướng” cũng từng vướng phải sai phạm trong sự nghiệp binh nghiệp của mình: theo sử cũ chép rằng ông từng nhận hối lộ và vu cáo cho Nguyễn Công Trứ nên bị giáng cấp chịu phạt nhưng sau đó vẫn được khôi phục chức Hiệp quản vì lập công dẹp man. Đây là một vết gợn trong cuộc đời binh nghiệp đáng chú ý song không làm lu mờ những đóng góp to lớn của ông cho vùng đất Tây Nam bộ.

Tôn Vinh Di Sản Văn Hoá

Nói đến tên tuổi của ông ngày nay vẫn còn tồn tại trên các con đường hay công trình tại An Giang, Đồng Tháp hay Sóc Trăng nhằm tôn vinh những đóng góp của vị danh tướng này với quê hương. Tuy nhiên thông tin về cuộc đời và sự nghiệp của ông vẫn còn khá ít hoi chưa được hệ thống hóa đầy đủ như những gì mà giá trị lịch sử văn hóa mà “Hùng dũng tướng” đã để lại cho đời sau.’

Lịch sử Dòng Nhạc Blues

No Le Va Lich Su Ra Doi Dong Nhac Blues

Lịch sử dòng nhạc Blues là câu chuyện về sự vùng lên của nô lệ Mỹ, để cuối cùng tạo thành dòng nhạc thịnh hành phương Tây. Chính di sản tàn khốc của chế độ nô lệ Mỹ đã khai sinh ra dòng nhạc blues, một phong cách âm nhạc ra đời từ cộng đồng người Mỹ gốc Phi ở miền Nam Hoa Kỳ. Blues phát triển qua nhiều thế hệ, hòa quyện giữa truyền thống âm nhạc châu Phi, thánh ca nhà thờ và nhạc dân gian của người định cư da trắng châu Âu tại miền Nam nước Mỹ.

  • Blues bắt nguồn từ các đồn điền bông ở miền Nam Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ 19.
  • Những bài hát phản ánh hiện thực khắc nghiệt của cuộc sống nô lệ.
  • Các biến thể như Delta Blues và Piedmont Blues đã hình thành từ những ảnh hưởng văn hóa khác nhau.
  • Sự phát triển của blues cũng phản ánh những khó khăn và đấu tranh của cộng đồng người Mỹ gốc Phi.

Khởi nguồn từ Nỗi đau

Nhạc Blues bắt đầu vào cuối thế kỷ 19 tại miền Nam Hoa Kỳ, lấy cảm hứng từ truyền thống âm nhạc châu Phi theo chân những người nô lệ bị mang đến các đồn điền ở Bắc Mỹ. Nô lệ châu Phi đã phải đối mặt với lệnh cấm đối với nhiều truyền thống âm nhạc của họ từ các chủ đồn điền da trắng – những người coi một số hình thức âm nhạc (như đánh trống) là công cụ tiềm năng để giao tiếp và nổi dậy.

Nhiều loại hình biểu đạt âm nhạc khác, như truyền thống hát đối đáp khi làm việc, được phép tồn tại vì chúng phục vụ mục đích duy trì năng suất của các nhóm nô lệ. Việc chuyển đổi những bài ca lao động truyền thống của người Phi phản ánh hiện thực thảm khốc của chế độ nô lệ Mỹ. Khi các thế hệ nô lệ mới ra đời, những bài hát trên đồn điền, các bài thánh ca tôn giáo và nhạc dân gian da trắng bắt đầu hòa quyện.

Các Biến thể Của Nhạc Blues

Delta Blues: Tiếng Hát Từ Đồng Bằng Sông Mississippi

Blues Miền Quê bắt nguồn từ vùng đồng bằng sông Mississippi ở miền Nam nước Mỹ. Mặc dù những bản thu âm đầu tiên mới xuất hiện từ những năm 1920, rễ của Delta Blues đã bám sâu trong các đồn điền bông ở Mississippi từ lâu lắm rồi. Delta Blues là tiếng hát mộc đơn ca, với guitar và đôi khi là cả harmonica làm nền.

Giọng hát trong Delta Blues thường theo kiểu đối đáp, kể những câu chuyện về tình yêu, mất mát, nghèo đói và cả nạn phân biệt chủng tộc vùng sông Mississippi nữa. Những huyền thoại như Skip James đã để lại dấu ấn rất rõ ràng trong dòng nhạc này.

Piedmont Blues: Giai Điệu Đến Từ Đông Nam Hoa Kỳ

Piedmont Blues thì khác với Country Blues một chút. Nó xuất phát từ vùng cao nguyên Piedmont ở Đông Nam nước Mỹ, kéo dài từ Richmond, Virginia đến tận Atlanta, Georgia. Piedmont Blues có thể nói là sự kết hợp giữa nhạc phúc âm của người da đen và giai điệu fiddle (vĩ cầm) cùng với nhạc đồng quê đến từ những người da trắng nghèo trong khu vực.

Piedmont đặc trưng bởi lối chơi guitar fingerpicking độc đáo – có tiếng bass đệm với ngón cái cùng giai điệu được chơi bằng các ngón còn lại. Các nghệ sĩ tiêu biểu như Blind Blake hay Elizabeth Cotton đại diện cho phong cách này với sự sáng tạo không giới hạn.

Sự Ra Đời Của Dòng Nhạc Hiện Đại

Sau cuộc Nội chiến Hoa Kỳ (1861-1865), dòng nhạc blues đã ra đời khắc họa chân thực cuộc sống khổ cực của cộng đồng người Mỹ gốc Phi ở khu vực nông thôn miền Nam. Đối với họ, blues chính là tiếng lòng ai oán trước những bất công mà họ phải chịu đựng.

Khi làn sóng di cư diễn ra lên phía Bắc như Chicago để tìm kiếm cơ hội việc làm mới mẻ hơn nhưng cũng đầy thử thách đang chờ đón họ; không chỉ mang theo chất blues mà còn cả tâm tư sâu sắc về cuộc sống khó khăn nơi đô thị đông đúc.
Cuộc sống thành thị cũng chẳng dễ dàng gì khi họ bị phân biệt chủng tộc và thiếu cơ hội việc làm đáng kể.

Một Di Sản Văn Hóa Không Thể Phai Mờ

Dù gặp nhiều trở ngại nhưng chính những khó khăn này dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa cho nền văn hóa nghệ thuật cộng đồng người da màu tại đây; thúc đẩy tinh thần đấu tranh vì quyền lợi chính đáng hơn bao giờ hết. Từ môi trường xã hội đó một phiên bản blues thành thị dần hình thành mang sắc thái hiện đại hơn; trong đó cây guitar điện trở thành biểu tượng tiêu biểu cho sự đổi mới này thông qua tên tuổi vĩ đại như T-Bone Walker hay B.B. King đã góp phần thay đổi diện mạo không chỉ riêng cho dòng music mà còn cả nền văn hóa giải trí toàn cầu.
0A Như vậy có thể thấy rằng không chỉ riêng jazz hay rock and roll mà ngay cả rap ngày nay đều chịu ảnh hưởng lớn lao từ blues; chẳng hạn như Jay-Z – rapper nổi tiếng – có nhiều nét tương đồng trong cách kể chuyện cũng như sử dụng nguyên liệu nền tảng dành riêng cho genre này để tạo nên tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời cho mình.

1 2 3 11